Người Ba Na trang tri hoa văn hình thoi màu trắng,
hỉnh những bông lúa, hoa van sổng nước màu vàng… Trên vạt áo của nam giới người
Ba Na còn trang trí những hình chữ thập nhó, hình thoi to, hình móc, hình tam
giác, hình chữ V, hình chữ nhật nối tiếp nhau, bên trên là hình những cây lúa
và nhành hoa… Hai bên diềm khố trang trí nhưng hình tam giác nhỏ bằng chỉ màu
trắng, vàng, đỏ. Trên tấm choàng có những trang trí hình mắt võng, hình quả
trám nối tiếp nhau.
Trên địu của người Hrê có trang trí những mảng hoa văn
hình xương cá, lôi bị chuối, mát mèo, móc câu, răng cưa hình rắn bằng chỉ màu
đỏ, trang trí nền đen.
Trên trang phục của người Cơ Tu, đặc biệt là trên chiếc địu và chiếc khố có trang trí loại hoa văn đặc biệt, đó là mô tip hình xương sống con rồng (gọi là khíp). Để nổi bật hoa văn màu trắng, người ta còn đeo thêm chuỗi cườm hình quả trám.
Trên trang phục của người Cơ Tu, đặc biệt là trên chiếc địu và chiếc khố có trang trí loại hoa văn đặc biệt, đó là mô tip hình xương sống con rồng (gọi là khíp). Để nổi bật hoa văn màu trắng, người ta còn đeo thêm chuỗi cườm hình quả trám.
Người Mạ không chí dệt trang trí hoa văn trên trang phục,
họ còn dệt hoa văn trên chăn đắp và tấm choàng. Thông thường, áo nam dược dệt
các hoa văn hình cánh và đuôi mũi tên nỏ (dap kon na), hình cái lược (kín),
hình người cưỡi ngựa (cau di aseh), con gà (kon rar), lùnh thơi (còn gọi là hoa
văn cây gạo – bó kau blanfi /onịị), vảy con trán (kac can), chân quạ, dấu chân
con khi, vảy bụng con thán lan, hoa vàn phù hiệu (bằng ky) và cuối cùng là đuôi
mũi tên nỏ. Phấn trang trí trên khố của người Mạ dành phần nhiều ở hai đầu khố,
với các mỏ tip chân quạ, cổ con chim cu và tua viền bằng sợi vải xe nhỏ. Có
loại áo chui đầu dành cho nam giới trang trí hoa văn ở cả thân trước và thân
sau với các họa tiết vảy trăn (kac dan), phù hiệu {bằng ky), dấu chân khỉ,
người dắt ngựa, người cười ngựa, váy bụng con thằn lằn. Loại áo chui đầu dành
cho nữ giới dân lộc Mạ được trang trí hoa văn dệt bằng chỉ màu đỏ, đen, xanh…
với mô tip hình chân quạ, hình bán nguyệt (nhai’srat), hình răng cưa (dai
chvah), mặt quạ, chim, hươu, vượn, phù hiệu; ở hai bên sườn họ dệt dải hoa văn
vảy thằn lằn. Cùng với chiếc áo, váy nữ còn dệt trang trí hoa văn vảy bụng con
thằn lằn, hình thoi (to, nhỏ) lồng vào nhau (gơr pìai pung), hình hạt dưa…
Trên mặt chăn được khâu từ 3 khố vải, mỗi khố dệt hoa văn
riêng, người Mạ tiếp tục trang trí hình bụng con thằn lằn (ndaì ding) xen kẽ
hoa văn cán dao phát, cối giã gạo, hình thoi và những chấm xanh, chạy kín các
đường thảng là mắt ốc sên {mắt tu). Cũng có loại chăn còn được dệt trang trí
hình con gà, ruột cây móc, con bướm, con vịt, ô che, chim câu, nhà thờ, cái
lược, ché rượu cần, cối giã gạo, cổ chim cu gáy, hình người {cồn can), cái ô
{chá), cái bàn, túi sách… Các loại hoa văn được lặp đi lặp lại nhiều lần trên
toàn bộ mặt chăn, áo. Họa tiết hoa văn bám sát vào thực tế cuộc sống của con
người và thiên nhiên, tạo nên bức tranh sinh động trên trang phục.
Từ khóa tìm kiếm nhiều:
ban sac van hoa dan to