Nằm trong đới khí hậu gió mùa nhiệt đới nóng ấm, Quáng Bình có
khí hậu mang tính chất chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền Nam với nét đặc trưng
là vào tháng lạnh nhất, nhiệt độ đã vượt quá 18°c. Tuy nhiên, do írông cực đới
vẫn còn ảnh hướng tương đối mạnh, nên vào mùa đông có ngày nhiệt độ xuống khá
thấp.
Nhiệt độ trung bình năm của Quảng Bình là 24 – 25°c, tăng dần từ
bắc vào nam, từ tây sang đông. Cân bằng bức xạ đạt 70 – 80 kcal/cm2/năm. Số giờ
nắng trung bình năm khoảng 1.700 – 2.000 giờ. Do địa hình phức tạp nên khí hậu
có sự phân hoá theo không gian (từ bắc vào nam và từ đông sang tây).
Khí hậu Quáng Bình chia làm 2 mùa rõ rệt. Mùa mưa kéo dài từ
tháng IX đến tháng XII với lượng mưa trung bình năm là 2.315 mm. So với các
tỉnh phía bắc, mùa mưa đến muộn hơn, cực đại vào tháng X và thường tập trung
vào 3 tháng (tháng IX, X, XI), vì thế, lũ lụt thường xảy ra trên diện rộng. Mùa
khô từ tháng I đến tháng VIII, với 5 tháng có nhiệt độ trung bình trôn 25°c.
Mùa khô nắng gắt, có gió tây (gió Lào) xuất hiện từ tháng III đến tháng VIII,
nhiều nhất là vào tháng VII, trung bình mỗi đợt kéo dài hơn 10 ngày, thời tiết
khô nóng, lượng bốc hơi lớn, gây ra hạn hán nghiêm trọng.
Khí hậu cua Quảng Bình nhìn chung khắc nghiệt. Mùa mưa lại
trùng với mùa bão. Tần suất bão nhiều nhất là vào tháng IX (37%), bão thường
xuất hiện từ tháng VII và kết thúc vào tháng XI. Bão kèm theo mưa lớn trong khi
lãnh thố lại hẹp ngang, độ dốc lớn nên thường gây ra lũ lụt đột ngột ánh hưởng
rất nhiều đến hoạt động sản xuất và đời sống.
Mạng lưới sông ngòi ở Quáng Bình nhìn chung khá phong phú.
Mật độ trung bình đạt 0,8 – 1,1 km/km2, trong đó ở vùng núi là 1 km/km2, ở ven
biển là 0,6 – 0,8 km/km2.
Do lãnh thố hẹp ngang, độ dốc lớn nên sông ngòi thường ngắn, dốc,
đào lòng mạnh, hướng chảy từ tây sang đông. Lượng dòng cháy trong năm tương đối
phong phú với môđun dòng cháy bình quân là 57 l/s/km2. Thuỷ chế có 2 mùa rõ rệt
tương ứng với mùa mưa và mùa khô (trong đó mùa lũ chiếm đến hơn 80% tống lượng
nước cá năm). Trên lãnh thổ Quáng Bình có 5 hệ thống sông chính. Từ bắc xuống
nam có sông Ròn (dài 30 km), sông Gianh (158 km), sông Lý Hoà (22 km), sông
Dinh (37 km) và sông Nhật Lệ (96 km). Lớn nhất là sông Gianh và sông Nhật Lệ.